- HỌC TẬP VÀ LÀM THEO LỜI BÁC
Học Bác để tự soi, tự sửa mình
Trong những năm qua, việc “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII (Chỉ thị 05) tại các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể chính trị – xã hội gắn với phòng và chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã tạo sự chuyển biến sâu sắc từ nhận thức đến hành động của mỗi cấp ủy, trong mỗi cán bộ, đảng viên.
“Cán bộ và đảng viên phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân”
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp”(1) và “Đảng ta là Đảng lãnh đạo cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân Đảng ta không có lợi ích nào khác. Vì vậy, cán bộ và đảng viên phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phải là người đầy tớ hết sức trung thành của nhân dân”(2). Cũng theo lời Người, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”(3), cho nên, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, người lãnh đạo, quản lý, đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng phải thường xuyên rèn luyện và phấn đấu.
Cụ thể, mỗi người cần: 1) Nỗ lực học tập và thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, để có thể phụ trách và giải quyết tốt các vấn đề của thực tiễn. 2) Tu dưỡng, trau dồi và nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, để không bị lợi ích vật cám dỗ làm tha hóa, biến chất. Vì “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc” và “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm; quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”(4), nên muốn “một lòng một dạ phục vụ nhân dân”, mỗi người hằng ngày phải tự phê bình và phê bình trên tinh thần: đối với mình thì phải “cả quyết sửa lỗi”, đối với người thì “có lòng bày vẽ”… 3) Trong mọi mặt công tác phải công tâm, khách quan, thẳng thắn, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình gắn với kiểm tra, giám sát theo quy định; luôn gắn bó với nhân dân, hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để kịp thời tham mưu và tập trung giải quyết những yêu cầu chính đáng của nhân dân; đồng thời “phải xem trọng những phê bình và những đề nghị của quần chúng… phải thật thà và công khai tự phê bình, ra sức sửa chữa… cần luôn luôn hoan nghênh quần chúng phê bình”(5) để công tác lãnh đạo đạt hiệu quả cao nhất.
Trong những năm qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, thấm nhuần lời dạy của Người và nhất là “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII (Chỉ thị 05), trong công tác và cuộc sống đời thường, đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu đã gương mẫu phấn đấu, rèn luyện đạo đức cách mạng, tự soi và sửa chữa, khắc phục những yếu kém, khuyết điểm. Phát huy vai trò nêu gương, mỗi cán bộ, đảng viên đã xây dựng kế hoạch phấn đấu, đi đầu trong thực thi công vụ, thực hiện chuẩn mực đạo đức gắn với công tác chuyên môn theo chức năng, nhiệm vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác với tinh thần: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6).
Thông qua việc học và làm theo Bác theo chương trình toàn khóa và chuyên đề hằng năm, nhất quán giữa nói và làm, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt các cấp và cán bộ, đảng viên đã tự giác học trước, làm trước để nêu gương cho quần chúng nhân dân, tạo hiệu ứng tích cực, có sức lan tỏa sâu rộng trong Đảng và trong nhân dân. |
Tuy nhiên, trên tinh thần nhìn thẳng và đánh giá đúng sự thật, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII) đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đồng thời chỉ rõ: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở… Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”.
Đó chính là một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, hoài nghi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngại học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ phận cán bộ, đảng viên này không chủ động, tự giác, tích cực kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, đôi khi còn phụ họa “té nước theo mưa” cho một số quan điểm sai trái, lệch lạc; thậm chí không thể vượt qua sự cám dỗ của lợi ích vật chất mà vi phạm pháp luật, làm sai Điều lệ Đảng. Cụ thể, họ là những người đã lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền hạn của mình khi “dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”(7) để kéo bè kéo cánh. Họ ỷ thế vào quyền hạn và trách nhiệm được trao để mưu lợi cho mình, cho người thân, cho nhóm lợi ích. Họ coi thường nguyên tắc tập trung dân chủ, “ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”(8); chỉ ưa dùng người bà con, anh em quen biết, những người tính tình hợp với mình, những kẻ khéo nịnh hót mình mà ghét những người chính trực, tránh những người tính tình không hợp với mình… gây bức xức trong cơ quan, địa phương, đơn vị, làm tổn hại uy tín của của Đảng, làm mất lòng tin của nhân dân. Đó cũng chính là những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân, “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”; ngại gian khổ, khó khăn, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành; tự cao, tự đại, “coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền”(9)..
- TRUYỀN THỐNG
- Theo dòng lịch sử
- Ngày truyền thống
Kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu
- Thân thế, cuộc đời Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu, tên thường gọi là Đồ Chiểu, tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ (sau khi bị mù lấy hiệu là Hối Trai); sinh ngày 01 tháng 7 năm 1822 (tức ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ), tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Xuất thân trong một gia đình nhà nho, thân sinh là Nguyễn Đình Huy, người làng Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế). Mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định.
Năm Quý Mão (1843), tại trường thi Hương Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu đỗ Tú tài và được một nhà nho hứa gả con gái cho ông. Năm 1846, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế học để chờ khoa thi Kỷ Dậu (1849). Nhưng khi nghe tin mẹ mất (1848) tại Gia Định, là con trưởng trong gia đình, không thể ở lại Huế chờ khoa thi, đầu năm 1849 Nguyễn Đình Chiểu trở về quê chịu tang mẹ. Trên đường trở về một phần vì thương khóc mẹ, phần vì vất vả do thời tiết thất thường, Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng khi đến Quảng Nam. Trong thời gian chữa bệnh tại nhà một thầy thuốc dòng dõi ngự y, Nguyễn Đình Chiểu đã học được nghề thuốc; đáng tiếc dù bệnh tình đã khỏi nhưng để lại di chứng khiến Nguyễn Đình Chiểu mù cả hai mắt khi tuổi đời còn rất trẻ.
LỊCH SỬ, Ý NGHĨA CỦA NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ
(27/7/1947 – 27/7/2022)
Ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7 là ngày Lễ kỷ niệm được tổ chức hàng năm nhằm tưởng niệm những người thương binh liệt sỹ đã hy sinh, mất mát qua những cuộc chiến. Qua đó tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ về lòng biết ơn đối với những người có công với Cách mạng từ trước đến nay.
Lịch sử của ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Tuy nhiên, do chính quyền cách mạng còn non trẻ nên thực dân Pháp đã âm mưu trở lại xâm lược nước ta.
Thực dân Pháp đã vào thay thế Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ và âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa.
Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn nền độc lập cho đất nước, toàn quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng ở những nơi có thực dân Pháp chiếm đóng. Nhiều chiến sĩ, đồng bào ta đã bị thương và vĩnh viễn nằm lại chiến trường.
Nỗi đau bao trùm lên toàn dân tộc, nhiều gia đình mất đi cả chồng và các con. Nhiều người vợ trẻ chỉ hưởng hạnh phúc vỏn vẹn trong một ngày.
Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình các chiến sĩ, đồng bào, Chính quyền Việt Nam đã xú tiến vận động thành lập một tổ chức, lấy tên gọi là Hội giúp binh sĩ tử nạn.
Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ tử nạn (sau đổi tên là Hội giúp binh sĩ bị thương) được thành lập ở Thuận Hóa, Bình Trị Thiên, ở Hà Nội và nhiều nơi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được mời làm hội trưởng danh dự của Hội giúp binh sĩ tử nạn.
Chiều ngày 28/5/1946, Hội “Giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát thành phố Hà Nội và Hồ Chủ Tịch đã tới dự.
Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát này đã có một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “ mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ.
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ vào ngày 19/12/1946, số người bị thương và hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sỹ và đồng bào ta gặp muôn vàn khó khăn.
Đảng và Nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng liên quan đến công tác Thương binh Liệt sĩ nhằm đảm bảo đời sống vật chất cũng như tinh thần của các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến.
Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ – Thái Nguyên.
Nội dung cuộc họp là thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ và bảo vệ công tác Thương binh Liệt sĩ.
Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc. Đây được coi là cuộc mít tinh quan trọng với 2000 người tham gia tại Thái Nguyên. Tại đây, Ban tổ chức đã trịnh trọng đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch.
Hàng năm vào dịp này, Người cũng đều có thư và quà để gửi đến các anh em thương binh và gia đình liệt sỹ.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7/5/1954, Đảng và Nhà nước ta càng quan tâm và giải quyết những vấn đề chiến sỹ, gia đình liệt sỹ cũng như công tác thương binh. Từ năm 1955, ngày 27/7 ngày Thương binh được đổi thành ngày Thương binh – Liệt sỹ.
Ý nghĩa của ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7
– Ý nghĩa chính trị:
Ngày 27/7 hàng năm phản ánh sự đánh giá của Đảng, Nhà nước, nhân dân với những gia đình đã có người hy sinh vì Tổ Quốc.
Qua đó, nhằm phát huy tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần cách mạng và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, lãnh đạo.
Cũng thông qua đó nhằm động viên và phát huy truyền thống cách mạng trong công cuộc đổi mới đất nước.
Công tác Thương binh Liệt sĩ và chính sách đối với những người có công với cách mạng chính là thể hiện tính ưu việt và bản chất của Đảng và Nhà nước ta.
Tạo điều kiện củng cố niềm tin vào nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự quản lý của nhà nước.
Góp phần tăng thêm tiềm lực cách mạng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và cơ sở để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần chống lại thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, bôi nhọ quá khứ hào hùng của dân tộc.
– Ý nghĩa nhân văn:
Tăng cường ý thức, trách nhiệm, lòng biết ơn, khơi dậy niềm tự hào dân tộc. Phát huy đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc. Thể hiện truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc.
Phát huy tinh thần “gia đình cách mạng gương mẫu” góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế.
Link tham khảo: https://baodautu.vn/lich-su-y-nghia-cua-ngay-thuong-binh-liet-si-277-d67177.html
27 NĂM NGÀY VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN (28/7/1995 – 28/7/2022)
Ngày 28-7-1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, đánh dấu quá trình hội nhập khu vực của Việt Nam cũng như tiến trình, hợp tác, liên kết của cả khu vực.
Từ 1995-1997, Việt Nam cùng các nước ASEAN thúc đẩy kết nạp Cam-pu-chia, Lào và mi-an-ma vào ASEAN, hoàn tất ý tưởng về một ASEAN gồm 10 quốc gia ở Đông Nam Á.
Tháng 12/1998, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 được tổ chức tại Hà Nội, thông qua Chương trình Hành động Hà Nội, góp phần quan trọng tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, định hướng cho sự phát triển và hợp tác của Hiệp hội nhằm thực hiện Tầm nhìn 2020.
Tháng 7/2000 – 7/2001, với vai trò Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) khoá 34 và ARF, Việt Nam đã chủ trì và tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 ( AMM 34), Diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 8 (ARF 8), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các nước Đồng Bắc Á (ASEAN +3), Các Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao giữa ASEAN với các nước đối thoại ( PMC + 10) và với từng nước Đối thoại ( PMC +1) và Hội nghị sông Hằng- Sông Mê kông vào cuối tháng 7/2001.
Hai năm sau khi Hiến chương ASEAN có hiệu lực, Việt Nam đảm nhận chức Chủ tịch luân phiên của ASEAN năm 2010. Việt Nam đã đưa ra những sáng kiến như mở rộng thành viên của Hội nghị Cấp cao Đông Á, bằng cách thúc đẩy kết nạp Nga và Mỹ tham gia Cấp cao Đông Á; cũng như tổ chức lần đầu tiên Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng (ADMM+) trong năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN 2010.
Việt Nam đã thành công trong các nhiệm kỳ điều phối quan hệ đối tác với các đối tác lớn và quan trọng của ASEAN như Trung Quốc, EU, Ấn Độ. Hiện nay, Việt Nam đang điều phối quan hệ ASEAN – Nhật Bản giai đoạn 2018-2021.
Việt Nam cùng với các nước tiếp tục triển khai các thỏa thuận và kế hoạch hợp tác quan trọng của ASEAN; Ủng hộ và hợp tác chặt chẽ với Thái Lan và các nước thành viên nhằm đạt được các ưu tiên đề ra cho năm 2019, đồng thời tiếp tục tập trung nguồn lực cho triển khai các kế hoạch xây dựng Cộng đồng trên cả 3 trụ cột; tham gia tích cực và đẩy mạnh liên kết kinh tế nội khối, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư thông qua hoàn tất đàm phán Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN (ATISA), xây dựng lộ trình cho cắt hàng rào giảm phi thuế quan và thúc đẩy đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Việt Nam cũng tham gia và đóng góp tích cực vào việc xây dựng và thông qua Tài liệu “Quan điểm của ASEAN về khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” giúp hình thành lập trường chung của ASEAN, thúc đẩy hợp tác trên cơ sở phù hợp với trên cơ sở các giá trị, nguyên tắc cơ bản và vai trò trung tâm của ASEAN. Cùng với các nước ASEAN tham gia tích cực và xây dựng trong quá trình đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu lực, hiệu quả.
Nguồn: www.asean2020.vn
Link tham khảo: https://www.asean2020.vn/web/asean/asean-viet-nam
III. PHÁP LUẬT
- Một số chính sách có hiệu lực từ 1/7
Điều chỉnh mức thu nhiều loại phí, lệ phí
Thông tư 120/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về mức thu của một số khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19, áp dụng từ ngày 1/1/2022 đến hết ngày 30/6/2022.
Trong đó, có một số các khoản được giảm như: lệ phí cấp thẻ Căn cước công dân gắn chip, lệ phí cấp hộ chiếu, phí sử dụng đường bộ, phí cấp giấy đăng kiểm,…
Cụ thể, các khoản này được giảm từ 10-50% so với quy định trước đó. Tuy nhiên, đến ngày 1/7/2022, các khoản phí, lệ phí này sẽ trở lại mức thu theo quy định.
Tăng mức lương tối thiểu theo vùng
Từ ngày 1/7/2022, Nghị định 38/2022/NĐ-CP đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng. Đây chính là mức tiền lương thấp nhất làm cơ sở để các bên thỏa thuận và trả lương cho người lao động.
Như vậy, người lao động làm việc tại doanh nghiệp sẽ được áp dụng mức lương tối thiểu vùng mới như sau:
Vùng I: 4.680.000 đồng/tháng (Hiện nay là 4.420.000 đồng/tháng); Vùng II: 4.160.000 đồng/tháng (Hiện nay là 3.920.000 đồng/tháng); Vùng III: 3.640.000 đồng/tháng (Hiện nay là 3.430.000 đồng/tháng); Vùng IV: 3.250.000 đồng/tháng (Hiện nay là 3.070.000 đồng/tháng).
Ngoài ra, còn bổ sung quy định về lương tối thiểu vùng theo giờ, cụ thể:
Vùng I: 22.500 đồng/giờ; Vùng II: 20.000 đồng/giờ; Vùng III: 17.500 đồng/giờ; Vùng IV: 15.600 đồng/giờ.
Bỏ hóa đơn giấy
Nghị định 123/2020/NĐ-CP và Thông tư 78/2021/TT-BTC đã quy định cụ thể lộ trình áp dụng hóa đơn điện tử.
Bắt buộc áp dụng hóa đơn điện tử, trừ một số trường hợp như doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ, cá nhân kinh doanh tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn không thực hiện giao dịch với cơ quan thuế bằng phương tiện điện tử, không có hệ thống phần mềm kế toán,…
Như vậy, trừ một số trường hợp đặc biệt, từ ngày 1/7, các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh sẽ không được sử dụng hóa đơn giấy mà bắt buộc phải chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử.
Quy định mới về cộng điểm ưu tiên
Theo Quy chế tuyển sinh đại học mới nhất được ban hành tại Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 22/7/2022. Mức điểm ưu tiên được áp dụng như sau: khu vực 1 (KV1) = 0,75 điểm; khu vực 2 nông thôn (KV2-NT) = 0,5 điểm; khu vực 2 (KV2) = 0,25 điểm; khu vực 3 (KV3) = 0 điểm.
Từ năm 2023, thí sinh được hưởng chính sách ưu tiên khu vực theo quy định trong năm tốt nghiệp trung học phổ thông (hoặc trung cấp) và một năm kế tiếp…
Bỏ chứng chỉ ngoại ngữ, tin học với công chức kế toán, thuế, hải quan
Từ ngày 18/7/2022, Thông tư 29/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định mã số, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và xếp lương đối với các ngạch công chức chuyên ngành kế toán, thuế, hải quan, dự trữ sẽ chính thức được áp dụng.
Thông tư 29/2022/TT-BTC không còn yêu cầu phải có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học đối với tất cả các vị trí.
Trong đó, công chức là kế toán viên, kiểm tra viên thuế, kiểm tra viên hải quan chỉ cần đảm bảo có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản và sử dụng được ngoại ngữ…
- ‘Giọt vàng’ tiểu cầu trao sự sống cho người bệnh ung thư, sốt xuất huyết
- HÀ NAM: TỔ CHỨC LIÊN HOAN ĐỘI TUYÊN TRUYỀN MĂNG NON VỀ PHÒNG CHỐNG TAI NẠN THƯƠNG TÍCH, ĐUỐI NƯỚC TRẺ EM NĂM 2022
- HÀ NAM: SÔI NỔI TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG KỶ NIỆM 73 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG HỌC SINH, SINH VIÊN VÀ HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM
- Hưởng ứng chiến dịch “Hành quân xanh”, “Kỳ nghỉ hồng”, “Hoa phượng đỏ”
- Tiếp sức mùa thi năm 2022 hỗ trợ sĩ tử khởi động sớm