- Những ngày đáng nhớ trong tháng 11
– 07/11/1917: Kỷ niệm Cách mạng Tháng 10 Nga.
– 09/11/1946: Quốc hội khóa I kỳ họp thứ hai thông qua Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
– 18/11/1930: Kỷ niệm Ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.
– 20/11/1982: Kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam.
– 23/11/1940: Kỷ niệm Ngày Khởi nghĩa Nam kỳ.
– 23/11/1946: Kỷ niệm Ngày thành lập Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam.
- TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VIỆT NAM – NGÀY TRUYỀN THỐNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM (18/11/1930 – 18/11/2022)
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VIỆT NAM RA ĐỜI – BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN TA
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược, thống trị nước ta, từng biến nước ta thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Chúng đã dùng nhiều thủ đoạn thống trị, áp bức, bóc lột hết sức tàn bạo và tìm mọi cách để đàn áp, dập tắt phong trào yêu nước và phong trào cách mạng của Nhân dân ta. Lúc này, tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Dưới tác động chính sách thống trị của thực dân Pháp và một số yếu tố khác, làm cho xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc, các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp nổ ra liên tiếp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX nhưng lần lượt bị thất bại vì thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức vững mạnh, thiếu lực lượng tiên phong. Điều đó được Lãnh tụ Hồ Chí Minh kết luận: “Từ ngày bị đế quốc xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”
Trong bối cảnh đó, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã không đi theo con đường cứu nước của các vị tiền bối vì nhận thấy ở đó còn những hạn chế. Người tìm hiểu một số cuộc cách mạng tư sản, nhất là Đại cách mạng Pháp năm 1789 với bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền và khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” nổi tiếng; cách mạng Bắc Mỹ với Tuyên ngôn độc lập năm 1776 tuyên bố về quyền con người thiêng liêng bất khả xâm phạm, nhưng nhận thấy ở đó “vẫn còn áp bức bất công”, không thể đáp ứng yêu cầu của dân tộc Việt Nam. Cuối cùng, Người tìm được và quyết định đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 của V.I Lênin – Lãnh tụ của giai cấp vô sản thế giới, người kế thừa và phát triển di sản vĩ đại của C.Mác – Ph.Ănghen. Qua thời gian chuẩn bị về tư tưởng, lý luận, tổ chức và cán bộ, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo, vạch ra những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam, trong đó có những nội dung về yêu cầu tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là cơ sở quan trọng để sau đó Đảng ta xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ – Tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước; ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh – hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam. Chỉ thị xác định Hội Phản đế Đồng minh phải bảo đảm tính công nông; đồng thời phải mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để Mặt trận thực sự là của toàn dân và nhấn mạnh: “giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”. Hội Phản đế Đồng minh là hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn cách mạng của Đảng ta. Đó cũng là cống hiến vĩ đại về lý luận và thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc, là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đủ trưởng thành, đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Từ đó tới nay, tuy có những hình thức và tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam luôn là nơi tập hợp các giai tầng xã hội vì mục tiêu lớn của dân tộc.
Nguồn: Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương.
III. ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 82 NĂM NGÀY NAM KỲ KHỞI NGHĨA (23/11/1940 – 23/11/2022)
- BỐI CẢNH LỊCH SỬ, DIỄN BIẾN, KẾT QUẢ CUỘC KHỞI NGHĨA NAM KỲ
- Bối cảnh lịch sử
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lợi dụng cơ hội này, cuối tháng 9/1940, phát xít Nhật kéo quân vào Đông Dương, từ đây Nhân dân ta lâm vào tình thế “một cổ hai tròng”. Tháng 11/1940, bọn quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật tiến đánh Campuchia. Thực dân Pháp bắt lính Nam Bộ ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nhân dân Nam Bộ sục sôi tranh đấu.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ bảy (khóa I) từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939 tại Bà Ðiểm (Hóc Môn, Gia Ðịnh) nhận định: Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật, cách mạng Đông Dương sẽ bùng nổ; do vậy, phải đoàn kết thực hiện bằng được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc; chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp, dân tộc và các cá nhân yêu nước.
Tinh thần Nghị quyết đã sớm đi vào đảng viên, quần chúng. Phong trào cách mạng ở Nam Kỳ ngày càng phát triển mạnh mẽ, liên tiếp diễn ra nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, đấu tranh. Đặc biệt là các cuộc đấu tranh chống bắt lính diễn ra mạnh mẽ kể từ khi thực dân Pháp bắt thêm lính Việt Nam đem sang chiến trường biên giới Ai Lao (Lào) – Cao Miên (Campuchia) để chống Xiêm (Thái Lan). Khí thế chiến đấu diễn ra hầu khắp Nam Kỳ, đặc biệt là ở Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long Xuyên, Chợ Lớn, Gia Định, Tân An, Vũng Tàu, Trà Vinh…
Trên cơ sở đó, tháng 3/1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư thảo ra Đề cương chuẩn bị bạo động. Từ tháng 7 đến tháng 10/1940, Ðảng bộ Nam Kỳ liên tiếp tổ chức nhiều cuộc họp để bàn chủ trương và gấp rút lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, thông qua Đề cương; chủ trương thành lập Ban Chỉ huy và Ban Quân sự các cấp; xác định hình thức chính quyền, quốc kỳ, khẩu hiệu; vạch các chính sách đối với Nhân dân…
Ðến giữa tháng 11/1940, trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, đặc biệt là tinh thần phản chiến của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay Nhân dân. Ngày 21/11/1940, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các cấp bộ Đảng nhất loạt phát động Nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ ngày 22/11/1940. Thời điểm hành động nhất loạt ở các tỉnh Nam Kỳ là lúc 0 giờ ngày 22, rạng 23/11/1940, hiệu lệnh là đèn Sài Gòn tắt hoặc có tiếng súng nổ.
Hội nghị Trung ương Ðảng họp tại Ðình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 6 đến 9/11/1940 nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước chưa chín muồi, đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Trung ương phái đồng chí Phan Đăng Lưu trở về truyền đạt quyết định của Trung ương cho Xứ ủy Nam Kỳ. Nhưng khi đồng chí Phan Ðăng Lưu về tới Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã ban hành tới các địa phương không thể thu hồi; một số cán bộ chủ chốt của Xứ ủy đã bị địch bắt, Cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch.
- Diễn biến, kết quả Cuộc khởi nghĩa
Chỉ trong một thời gian ngắn kể từ khi Thường vụ Xứ uỷ ra Đề cương chuẩn bị bạo động (tháng 3/1940), công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai rất khẩn trương; các tổ chức phản đế xuất hiện nhiều nơi, nhất là ở vùng nông thôn. Mít tinh, biểu tình liên tiếp nổ ra. Nhiều nơi địch đến đánh phá, Nhân dân nổi trống mõ, uy hiếp địch, bảo vệ cán bộ. Các đội tự vệ, du kích phát triển ngay trong những xí nghiệp lớn ở Sài Gòn như Ba Son, nhà máy đèn Chợ Quán, trường Bách Nghệ… Ở nông thôn, phần lớn các xã đều có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích. Các cơ sở sản xuất vũ khí làm việc suốt ngày đêm. Nhân dân quyên góp kim khí để đúc đạn; xuất hiện những cơ sở làm bom, lựu đạn xi măng, súng thô sơ ở Móp Xanh (Tân An), Bà U (Mỹ Tho), chùa Hòa Thượng Đồng (Rạch Giá)… Phong trào chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu “không một đồng xu, không một người lính cho đế quốc chiến tranh” ngày càng lan rộng. Công tác binh vận được tổ chức ráo riết, phần lớn trong số 15.000 binh lính người Việt trong quân đội Pháp đóng ở Sài Gòn sẵn sàng phối hợp nổi dậy. Tuy nhiên, vì kế hoạch khởi nghĩa bị địch biết trước nên chúng lùng sục bắt bớ, giữ binh lính người Việt ở trong trại, tước vũ khí của binh lính phản chiến. Dù vậy, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn diễn ra theo đúng kế hoạch vào đêm 22 rạng sáng 23/11/1940.
Khởi nghĩa bùng nổ đồng loạt tại hầu hết các tỉnh Nam Kỳ với tinh thần quyết liệt, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long… Lực lượng vũ trang và quần chúng đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường… Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập. Lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng và trong nhiều cuộc biểu tình. Bọn phản cách mạng bị xét xử. Ruộng, thóc của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.
IV. VÌ SAO NGÀY 20-11 TRỞ THÀNH NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM
Để tri ân, tôn vinh những người làm công tác trồng người, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã ban hành Quyết định số 167/HĐBT, quyết định lấy ngày 20-11 hàng năm là Ngày Nhà giáo Việt Nam.
Một số sự kiện nổi bật trong nước và quốc tế ngày 20-11
Sự kiện trong nước
Tháng 8-1957, Hội nghị quốc tế các nhà giáo họp tại Warszawa (Ba Lan) đã thông qua bản Hiến chương các nhà giáo và quyết định lấy ngày 20-11 hằng nǎm là “Ngày quốc tế hiến chương các nhà giáo”. Trong ngày 20-11-1958, lễ kỷ niệm không những được tổ chức tại Hà Nội, mà còn diễn ra từ Vĩnh Linh đến các vùng biên giới hải đảo. Việc tổ chức Ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo 20-11 hằng năm đã sớm trở thành ngày hội truyền thống của giáo giới Việt Nam.
Khi Việt Nam thống nhất, với ý nghĩa tích cực của ngày 20-11, theo nguyện vọng của giáo giới cả nước, kiến nghị của Đại hội Công đoàn Giáo dục Việt Nam lần thứ VIII (tháng 4-1982) và Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng Cục dạy nghề, Ủy ban Bảo vệ bà mẹ trẻ em…, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 167/HĐBT, ngày 26-9-1982 quyết định sẽ lấy ngày 20-11 hằng năm là Ngày Nhà giáo Việt Nam.
Từ đó đến nay, đây là Ngày truyền thống của ngành giáo dục để tôn vinh những người làm công tác trồng người. Quyết định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của nhà giáo trong sự nghiệp đào tạo lớp người mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Điều này hoàn toàn phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, một dân tộc có mấy nghìn năm văn hiến và có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Ngày 20-11 cũng là dịp để các thế hệ học sinh “đền đáp” lại công ơn dưỡng dục của các thầy cô, là dịp để lớp lớp học trò ghi nhớ sâu sắc, gửi lòng thành biết ơn đến những người “tháng tháng, năm năm vẫn không ngừng chèo lái con thuyền”.
Ngày 20-11-1967, Ban chỉ huy tỉnh đội Quảng Bình quyết định thành lập đại đội pháo binh nữ dân quân Ngư Thủy gồm 37 chiến sĩ, tuổi đời từ 16-22. Chỉ trong vòng 100 ngày kể từ khi mới thành lập, đơn vị đã anh dũng bắn cháy 3 tàu khu trục hạm của hải quân Mỹ, góp phần bảo vệ vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Năm 1968, các chị đã liên tiếp đánh thắng 4 trận, được Bác Hồ gửi thư khen và tặng huy hiệu. Với thành tích đạt được, ngày 25-8-1970 đại đội được Quốc hội và Chính phủ tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang.
Sự kiện quốc tế
Xenma Lagéclốp (Salme Legerlof) là nhà nữ vǎn sĩ danh tiếng Thụy Điển, sinh ngày 20-11-1858. Nǎm 1919, bà được tặng giải Noben và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Thụy Điển. Bà mất ngày 16-3-1940.
Ngày 20-11-1989: Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em. Công ước có 54 điều khoản bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống của trẻ và đặt ra các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà tất cả trẻ em ở khắp mọi nơi đều được hưởng.
Theo dấu chân Người
Ngày 20-11-1921, báo cáo của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc dự cuộc họp của Chi bộ quận 17 Đảng Cộng sản Pháp, tại cuộc họp này, Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ Chi bộ quận 13 sang quận 17, Pari.
Ngày 20-11-1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia dự thảo báo cáo của Tiểu ban Đông Dương thuộc Pháp trong Ban Nghiên cứu Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp và đưa ra đề nghị: “Công tác tuyên truyền này thực hiện: a) bằng các báo chí xuất bản ở Pháp. b) bằng diễn đàn của các Đại hội của chúng ta và khi cần, bằng diễn đàn của nghị viện. c) bằng các hội nghị. d) bằng mọi phương thức thích hợp với đối tượng, với trình độ giáo dục và văn minh của quần chúng bản xứ ở các thuộc địa”. Văn bản cũng đòi hỏi công tác tuyên truyền cần được Đảng trực tiếp chỉ đạo.
Ngày 20-11-1946, Bác ký Sắc lệnh bổ nhiệm nhiều cán bộ quân sự vào các cương vị quan trọng mà sau này họ đều trở thành những tướng lĩnh tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam như: Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Phan Phác.
Ngày 20-11-1958, Bác thăm Trường Cán bộ Công đoàn và căn dặn: “Muốn phát động quần chúng cho tốt thì trước hết cán bộ công đoàn phải gương mẫu, phải được phát động trước thì công nhân mới động… Phải tin vào sáng kiến và lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, nếu không thì phát mấy cũng không động” .
Ngày 20-11-1967, Bác gửi thư khen và tặng huy hiệu cho đơn vị nữ dân quân xã Hoằng Hải, Hoằng Trường, Thanh Hoá đã tham gia bắn rơi hai máy bay phản lực Mỹ.
(Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày này năm xưa, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2010)
Lời Bác dạy ngày này năm xưa
Bất kỳ quốc gia, thời đại nào cũng đều chú trọng tìm kiếm, đào tạo người hiền tài, đây là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của một quốc gia. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn chiêu mộ người hiền tài và coi đây là việc vô cùng cần thiết và đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch sử. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành được thắng lợi đã mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc. Song tình thế cách mạng lúc này như “ngàn cân treo sợi tóc”: Thù trong giặc ngoài, chính quyền nhân dân còn non trẻ, đòi hỏi vừa phải chăm lo xây dựng chính quyền nhưng đồng thời cũng phải bảo vệ vững chắc chính quyền ấy.
Ngày 20-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra văn bản Tìm người tài đức đăng trên báo Cứu quốc số 411. Trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”.
Người thẳng thắn tự nhận khuyết điểm: “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó, tôi xin thừa nhận”. Từ đó, Bác đề ra cụ thể nhiệm vụ của các địa phương là phải quan tâm để ý, phát hiện người tài ở địa phương mình, báo cáo lên Chính phủ để trọng dụng người tài đó.
(Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011)
Tư tưởng của Bác và những câu chuyện trọng dụng nhân tài của Người để lại nhiều bài học quý giá cho Đảng ta. Đó là, muốn trọng dụng nhân tài thì phải có chính sách đúng, đây là cái gốc. Không thể ngồi đợi người tài tự đến với mình, mà phải đi vận động. Vận động ở đây không có nghĩa là dùng tiền bạc mà bằng sự chân thành, cởi mở, lấy tinh thần yêu nước làm động lực, chứ không phải vì động cơ để có quyền cao chức trọng hay lợi ích vật chất.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn đối với nhân tài và đội ngũ trí thức, quan tâm, động viên và khuyến khích đội ngũ này đóng góp tài năng cho đất nước. Công tác trọng dụng trí thức nói chung, nhân tài nói riêng được Đảng ta xác định rõ trong Nghị quyết Trung ương 27 (khóa X), Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách thu hút người tài tham gia vào các cơ quan của Đảng, của Chính phủ. Bên cạnh việc tuyển chọn từ trên ghế nhà trường, đưa đi đào tạo ở nước ngoài, có chế độ đãi ngộ phù hợp, thời gian qua, nhiều người Việt Nam thành danh ở nước ngoài cũng được mời về nước tham gia vào các viện nghiên cứu, các trường đại học hoặc trực tiếp đóng góp vào các công trình, dự án… Nhiều cơ quan, địa phương đã tổ chức thi tuyển để chọn người lãnh đạo thay vì chỉ thực hiện cách thức truyền thống là xét chọn, bổ nhiệm, đề bạt. Cả hệ thống chính trị coi đây là công việc quan trọng và thực sự quan tâm thực hiện, để thu hút người có tài, có đức tham gia công tác trong hệ thống chính trị, tránh để “chảy máu chất xám” ra nước ngoài.
Ngày nay, trong kỷ nguyên văn minh trí tuệ với kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa, cuộc cách mạng 4.0, việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, có vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển của nước ta. Nhất là từ khi nước ta gia nhập quốc tế đặt ra nhiều thách thức buộc chúng ta phải thay đổi để phát triển, đồng thời cũng mở ra cơ hội lớn để nước ta vươn lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được mục tiêu đó nếu đất nước có một đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, đảm lãnh nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Song việc phát hiện, tuyển chọn đội ngũ cán bộ tài năng là công việc đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức với cái nhìn thực sự công tâm, sáng suốt. Đây là công việc không đơn giản được ví như việc “đãi cát tìm vàng”. Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi các học sinh viên, cán bộ, chiến sĩ ra sức rèn luyện, học tập cống hiến tài năng cho đất nước.
- NỀN TẢNG QUẢN LÝ DẠY VÀ HỌC TRỰC TUYẾN
- Ngày hội đầu tư và khởi nghiệp cho thanh niên Hà Nam năm 2021
- Bộ Công an và Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam triển khai Đề án 06
- Huyện đoàn Lý Nhân tổ chức cho các em thiếu nhi trong toàn huyện trở về khu lưu niệm đền thờ Bác Hồ dâng hương
- CÔNG TRÌNH THANH NIÊN “SỐ HÓA THÔNG TIN DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN THỜ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TẠI CÁT TƯỜNG”